11/a3
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

lớp giởi nhất trường sna và cũng xì tin nhất


You are not connected. Please login or register

Phân tích bài thơ " Vội vàng"

Go down  Thông điệp [Trang 1 trong tổng số 1 trang]

Ai Biết


Admin
Admin

Bài tham khảo:
Nhà thơ Thế Lữ, trong lời Tựa cho tập Thơ Thơ của Xuân Diệu, đã có nhận xét khá tinh tế: “Xuân Diệu là một người của đời, một người ở giữa loài người. Lầu thơ của ông xây dựng trên đất của một tấm lòng trần gian” . Đã hơn hai mươi năm Xuân Diệu giã từ chúng ta vào cõi hư vô, nhưng “tấm lòng trần gian” của ông dường như vẫn còn ở lại. Cứ mỗi lần xuân tới, những trái tim non trẻ của các thế hệ học sinh lại rung lên những cảm xúc mãnh liệt trước tâm tình của Xuân Diệu gửi gắm với đời trong bài thơ Vội vàng, gắn với niềm khát khao giao cảm với đất trời, con người tràn mê đắm của thi nhân, trong mùa xuân diệu kì!

Làm thơ xuân vốn là một truyền thống của thi ca Việt Nam, bao nét xuân đi vào thi ca đều mang một dấu ấn cảm xúc riêng. Đặc biệt, trong thơ lãng mạn Việt Nam 1932 – 1945, mùa xuân còn gắn với cái tôi cá nhân cá thể giàu cảm xúc của các nhà thơ mới. Có thể kể đến một Hàn Mặc Tử với “khách xa gặp lúc mùa xuân chín…”, một Nguyễn Bính với “mùaxuân là cả một mùa xanh…”. Nhưng có lẽ Xuân Diệu chính là người đã đem vào trong cảm xúc mùa xuân tất cả cái rạo rực đắm say của tình yêu. Vội vàng là lời tâm tình với mùa xuân của trái tim thơ tuổi hai mươi căng nhựa sống.

Cái động thái bộc lộ đầy đủ nhất thần thái của Xuân Diệu có lẽ là vội vàng. Ngay từ hồi viết Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh đã thấy “Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuốn quýt”. Cho nên, đặt cho bài thơ rất đặc trưng của mình cái tên Vội vàng, hẳn đó phải là một cách tự bạch, tự họa của Xuân Diệu. Nó cho thấy thi sĩ rất hiểu mình.

Thực ra, cái điệu sống vội vàng, cuống quýt của Xuân Diệu bắt nguồn sâu xa từ ý thức về thời gian, về sự ngắn ngủi của kiếp người, về cái chết như là một kết cục không tránh khỏi mai hậu. Sống là cả một hạnh phúc lớn lao diệu kỳ. Mà sống là phải tận hiến và tận hưởng! Đời người là ngắn ngủi, cần tranh thủ sống. Sống hết mình, sống đã đầy. Thế nên phải chớp lấy từng khoảnh khắc, phải chạy đua với thời gian. Ý thức ấy luôn giục giã, gấp gáp. Bài thơ này được viết ra từ cảm niệm triết học ấy.

Thông thường, yếu tố chính luận đi cùng thơ rất khó nhuần nhuyễn. Nhất là lối thơ nghiêng về cảm xúc rất “ngại” đi cùng chính luận. Ấy thế nhưng nhu cầu phô bày tư tưởng, nhu cầu lập thuyết lại không thể không dùng đến chính luận. Thơ Xuân Diệu hiển nhiên là loại thơ xúc cảm. Nhưng đọc kỹ sẽ thấy rằng thơ Xuân Diệu cũng rất giàu chính luận. Nếu như cảm xúc làm nên cái nội dung hình ảnh, hình tượng sống động như mây trôi, nước chảy trên bề mặt của văn bản thơ, thì dường như yếu tố chính luận lại ẩn mình, lặn xuống bề sâu, làm nên cái tứ của thi phẩm. Cho nên mạch thơ luôn có được vẻ tự nhiên, nhuần nhị. Vội vàng cũng thế. Nó là một dòng cảm xúc dào dạt, bồng bột cuốn theo bao hình ảnh thi ca như gấm như thêu của cảnh sắc trần gian. Nhưng nó cũng là một bản tuyên ngôn bằng thơ, trình bày cả một quan niệm nhân sinh về lẽ sống vội vàng. Có lẽ không phải thơ đang minh họa cho triết học. Mà đó chính là minh triết của một hồn thơ.

Mục đích lập thuyết, dạng thức tuyên ngôn đã quyết định đến bố cục của Vội vàng. Thi phẩm khá dài nhưng tự nó hình thành hai phần khá rõ rệt. Cái cột mốc ranh giới giữa hai phần đặt vào ba chữ “Ta muốn ôm”. Phần trên nghiêng về luận giải cái lí do vì sao cần sống vội vàng. Phần dưới là bộc lộ cái hành động vội vàng ấy. Nói một cách vui vẻ: trên là lý thuyết, dưới là thực hành! Điều rất dễ thấy là thi sĩ chọn cách xưng hô cho từng phần. Ở trên, xưng “tôi”, lập thuyết đối thoại với đồng loại. Ở dưới, xưng “ta”, đối diện với sự sống. Phần luận lí có xu hướng cắt xẻ bài thơ. Nhưng hơi thơ bồng bột, giọng thơ dào dạt, sôi nổi đã xóa mọi cách ngăn, khiến thi phẩm vẫn luôn là một chỉnh thể sống động, tươi tắn và truyền cảm.

Mở đầu bài thơ là một khổ ngũ ngôn thể hiện một ước muốn kì lạ của thi sĩ. Ấy là cái ước muốn quay ngược quy luật tự nhiên – một ước muốn không thể:

Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất;
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.

Muốn “tắt nắng”, muốn “buộc gió”, thật là những ham muốn kỳ dị, chỉ có ở thi sĩ. Nhưng làm sao cưỡng được quy luật, làm sao có thể vĩnh viễn hóa được những thứ vốn ngắn ngủi mong manh ấy? Cái ham muốn lạ lùng kia đã hé mở cho chúng ta một lòng yêu bồng bột vô bờ đối với cái thế giới thắm sắc đượm hương này.

Thế giới này được Xuân Diệu cảm nhận theo một cách riêng. Nó bày ra như một thiên đường trên mặt đất, như một bữa tiệc lớn của trần gian. Được cảm nhận bằng cả sự tinh vi nhất của một hồn yêu đầy ham muốn, nên sự sống cũng hiện ra như một thế giới đầy xuân tình. Cái thiên đường sắc hương đó hiện ra trong Vội vàng vừa như một mảnh vườn tình ái, vạn vật đương lúc lên hương, vừa như một mâm tiệc với một thực đơn quyến rũ, lại vừa như một người tình đầy đắm say. Xuân Diệu cũng hưởng thụ theo một cách riêng. Ấy là hưởng thụ thiên nhiên như hưởng thụ ái tình. Yêu thiên nhiên mà thực chất là tình tự với thiên nhiên.

Hãy xem cách diễn tả vồ vập về thiên nhiên ở thì xuân sắc, một thiên nhiên rạo rực xuân tình:

Của ong bướm này đây tuần tháng mật,
Này đây hoa của đồng nội xanh rì,
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si,
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi.
Mỗi sáng sớm thần Vui hằng gõ cửa;
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;

Có lẽ trước Xuân Diệu trong thơ Việt Nam chưa có cảm giác “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”. Nó là cảm giác của ái ân tình tự. Cảm giác ấy đã làm cho người ta thấy tháng giêng mơn mởn non tơ đầy một sức sống thanh tân kia mà sao quyến rũ – tháng giêng mang trong nó sức quyến rũ không thể cưỡng được của một người tình rạo rực, đắm say.

Hai mảng thơ đầu kế tiếp nhau đã được liên kết bằng cái logic luận lí ngầm của nó. Thi sĩ muốn “tắt nắng”, “buộc gió” chính vì muốn giữ mãi hương sắc cho trần thế này đây. Hương sắc là cái sinh khí của nó, là cái vẻ đẹp, cái nhan sắc của nó. Tất cả chỉ rực rỡ trong độ xuân thì. Mà xuân lại vô cùng ngắn ngủi. Và thế là mảng thơ thứ ba của phần luận giải đã hình thành để nói về cái ngắn ngủi đến tàn nhẫn của xuân thì đối với sự sống và cái xuân thì của con người. Phải, cái thế giới này lộng lẫy nhất, “ngon” nhất là ở độ xuân; còn con người cũng chỉ hưởng thụ được cái “ngon” kia khi còn trẻ thôi. Mà cả hai đều vô cùng ngắn ngủi, thời gian sẽ cướp đi hết thảy. Có lẽ cũng lần đầu tiên, thơ ca Việt Nam có được cái quan niệm này:

Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua,
Xuân còn no nghĩa là xuân sẽ già.

Con người thời trung đại hình như yên trí với quan niệm thời gian tuần hoàn với cái chu kỳ bốn mùa, cũng như cái chu kì ba vạn sáu ngàn ngày của kiếp người. Con người hiện đại sống với quan niệm thời gian tuyến tính, thời gian như một dòng chảy mà mỗi một khoảnh khắc qua là mất đi vĩnh viễn. Cho nên Xuân Diệu đã nồng nhiệt phủ định:

Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại !

Thước đo thời gian của thi sĩ là tuổi trẻ. Tuổi trẻ một đi không trở lại thì làm chi có sự tuần hoàn !

Trong cái mênh mông của đất trời, cái vô tận của thời gian, sự có mặt của con người thật là ngắn ngủi, hữu hạn. Nghĩ về tính hạn chế của kiếp người, Xuân Diệu đã đem đến một nỗi ngậm ngùi thật mới mẻ:

Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;

Và đem đến một cảm nhận đầy tính lạ hóa về thời gian và không gian:

Mùi tháng năm đền rớm vị chia phôi
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt…

Là người đã tiếp thu ở mức nhuần nhuyễn phép “tương giao” của lối thơ tượng trưng, Xuân Diệu đã phát huy triệt để sự tương giao về cảm giác để cảm nhận và mô tả thế giới. Thời gian được cảm nhận bằng khứu giác: “Mùi tháng năm” – thời gian của Xuân Diệu được làm bằng hương – chẳng thế mà thi sĩ cứ muốn buộc gió lại ư? Một chữ “rớm” cho thấy khứu giác đã chuyển thành thị giác. Nó nhắc ta nhớ đến hình ảnh giọt lệ. Chữ “vị” liền đó, lại cho thấy cảm giác thơ đã chuyển qua vị giác. Và đây là một vị hoàn toàn phi vật chất: “vị chia phôi” ! Thì ra chữ “rớm” và chữ “vị” này đều từ một hình ảnh ẩn hiện là giọt lệ chia phôi đó. Vì sao thời gian lại mang cái hương vị - hình thể của chia phôi? Ấy là những cảm giác chân thực hay chỉ là trò diễn của ngôn ngữ theo kịch bản của phép “tương giao”? Cái tinh tế của Xuân Diệu chính là ở đấy ! Thi sĩ cảm thấy thật hiển hiện mỗi khoảnh khắc đang lìa bỏ hiện tại để trở thành quá khứ thật sự là một cuộc ra đi vĩnh viễn. Trên mỗi thời khắc đều đang diễn ra một cuộc chia tay của thời gian với con người, với không gian và với cả chính thời gian. Cho nên thi sĩ nghe thấy một lời than luôn âm vang khắp núi sông này, một lời than vĩnh viễn: than thầm tiễn biệt. Không gian đang tiễn biệt thời gian ! Và thời gian trôi đi sẽ khiến cho cái nhan sắc thiên nhiên diệu kỳ này bước vào độ tàn phai. Một sự tàn phai không thể nào tránh khỏi !

Thế đấy, không thể buộc gió, không thể tắt nắng, cũng không thể cầm giữ được thời gian, thì chỉ có cách thực tế nhất là chạy đua với thời gian, là phải tranh thủ sống:

Chẳng bao giờ, ôi ! Chẳng bao giờ nữa…
Mau đi thôi ! Mùa chưa ngả chiều hôm

Đến đây phần luận giải của tuyên ngôn vội vàng đã đủ đầy luận lý !

Bài thơ được kết thúc bằng những cảm xúc mãnh liệt, bằng những tham muốn mỗi lúc một cuồng nhiệt , vồ vập. Đó là cả một cuộc tình tự với thiên nhiên, ái ân cùng sự sống. Chỉ có thể diễn tả như thế, Xuân Diệu mới phô diễn được cái lòng ham sống, khát sống sung mãn của mình:

Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chuếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi !

Nếu chọn một đoạn thơ trong đó cái giọng sôi nổi bồng bột của Xuân Diệu thể hiện đầy đủ nhất, thì đó phải là đoạn thơ này. Ta có thể nghe thấy giọng nói, nghe thấy cả nhịp đập của con tim Xuân Diệu trong đoạn thơ ấy. Nó hiện ra trong những làm sóng ngôn từ đan chéo nhau, giao thoa và song song vỗ vào tâm hồn người đọc. Cái điệp ngữ “ta muốn” được lặp đi lặp lại với mật độ thật dày và cũng thật đích đáng. Nhất là mỗi lần điệp lại đi liền với một động thái yêu đương mỗi lúc một mạnh mẽ, mãnh liệt, nồng nàn: ôm – riết – say – thâu – cắn. Có thể nói câu thơ “Và non nước, và cây, và cỏ rạng” là không thể có đối với thư pháp trung đại vốn coi trọng những chữ đúc. Thậm chí, đối với thơ xưa, đó sẽ là câu thơ vụng. Tại sao lại thừa thãi liên từ “và” đến thế ? Vậy mà, đó lại là sáng tạo của nhà thơ hiện đại Xuân Diệu. Những chữ “và” hiện diện cần cho sự thể hiện nguyên trạng cái giọng nói, cái khẩu khí của thi sĩ. Nó thể hiện đậm nét sắc thái riêng của cái tôi Xuân Diệu. Nghĩa là thể hiện một cách trực tiếp, tươi sống cái cảm xúc tham lam đang trào lên mãnh liệt trong lòng ngực yêu đời của thi sĩ !

Câu thơ:

Cho chuếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;

cũng tràn đầy những làn sóng ngôn từ như vậy. Từ “cho” điệp lại với mức độ tăng tiến nhấn mạnh các động thái hưởng thụ thỏa thuê: chuếnh choáng – đã đầy – no nê. Sóng cứ càng lúc càng dâng cao, càng vỗ mạnh, đẩy cảm xúc lên tột đỉnh:

Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi !

Ta thấy Xuân Diệu như một con ong hút nhụy đã no nê đang lảo đảo bay đi. Lại thấy thi sĩ như một tình lang trong cuộc tình chuếnh choáng men say.

Có thể nói Xuân Diệu qua bài thơ này không chỉ "sống" hay "ham sống" mà ông "say sống". Sống mãnh liệt, hối hả kẻo nữa lại tiếc nuối - Đó là một nhân sinh quan lành mạnh. Nó khác với sự nguội lạnh, hờ hững, lạt lẽo. Bài thơ là nhịp đập gấp gáp trước "thanh sắc trần gian" một ngày xuân của một trái tim chưa bao giờ chán sống.
Sống là hạnh phúc. Muốn đạt tới hạnh phúc phải sống vội vàng. Thế là, vội vàng là cách đến với hạnh phúc, là chính hạnh phúc, và hình như cũng là cái giá phải trả cho hạnh phúc vậy ! Ta hiểu vì sao khi Xuân Diệu xuất hiện, lập tức thi sĩ đã thuộc về tuổi trẻ !

Ai Biết


Admin
Admin


Sau gần 50 năm làm thơ, Xuân Diệu đã để lại cho thơ Việt Nam hàng chục tập thơ với trên dưới 1000 bài thơ thấm đậm tình yêu cuộc sống nồng nàn. Nếu phải chọn ra một bài thơ tiêu biểu cho thơ Xuân Diệu thơ tình yêu ấy thì đó sẽ là một bài thơ trong tập thơ Thơ Thơ được sáng tác trong những năm 18 đôi mươi tươi đẹp của nhà thơ: bài thơ Vội vàng. Đúng như tên gọi vội vàng là tình yêu nồng nàn của Xuân Diệu đối với cuộc sống tươi đẹp mà nhà thơ tự thấy mình phải vội vàng phải gấp gáp nhận lấy.
Xuân Diệu đã mở đầu bài thơ bằng bốn dòng thơ ngũ ngôn ngắn gọn mạnh mẽ như lời tuyên bố về khát vọng của mình:
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi
Tắt nắng đi ư ? buộc gió lại ư ? đó là những điều ko thể làm được, đó là những khao khát thật là phi lí. Nhưng cái phi lí ấy lại có lí đối với trái tim nhà thơ, bởi đó là 1 trái tim đầy khát khao mãnh liệt, muốn sống đến trọn vẹn chữ sống, muốn giữ mãi cho mình những hương những sắc của cuộc đời. Mà cuộc đời thì đẹp đẽ biết chừng nào quý giá đến chừng nào ! trong cuộc sống này tất cả đều kì diệu bởi mỗi sự vật dù có nhỏ bé đến đâu cũng hiến cho đời cái tuyệt diệu của mình hãy nghe Xuân Diệu kể
Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Bướm ong thì có “tuần tháng mật”, đồng nội thì có muôn hoa, cành tơ thì có muôn lá, mắt người thì có ánh sáng…Những câu thơ của Xuân Diệu nhanh gấp trong 1 nhịp điệu dạt dào. Không thể nào kể cho hết, đếm cho xuể về vẻ đẹp của cuộc đời. Ai bảo cuộc đời này là đáng chán ? cuộc đời đáng sống biết bao đẹp đẽ biết bao ! với Xuân Diệu cuộc sống lúc nào cũng tràn trề niềm vui, người ta gặp niềm vui hết ngày này qua ngày kia. Niềm vui như 1 vị thần độ lượng ngày nào cũng đến gõ cửa từng nhà:
Mỗi sáng sớm thần Vui hằng gõ cửa
Đó là cuộc đời trong khoảng thời gian đẹp nhất của cuộc đời đó là mùa xuân. Phải nói rằng, trong thơ Việt Nam chưa có ai cảm nhận mùa xuân như cách cảm nhận của Xuân Diệu:
Tháng giêng ngon như 1 cặp môi gần
Có một điều đáng lưu ý bởi đây là 1 đặc điểm thơ của Xuân Diệu. Xuân Diệu không lấy thiên nhiên làm chuẩn để so sánh với vẻ đẹp của con người như ta vẫn gặp trong thơ cổ mà lại lấy vẻ đẹp của con người là chuẩn để so sánh với vẻ đẹp của thiên nhiên. Nếu ta gặp trong thơ Nguyễn Du vẻ đẹp của Thúy Vân
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da
Còn Xuân Diệu thì:
Tháng giêng ngon như 1 cặp môi gần
Con người bao giờ cũng là 1 điều tuyệt diệu
Có 1 cuộc sống đẹp đẽ như vậy để sống có những màu sắc tuyệt diệu như vậy để tận hưởng con người ta sẽ sung sướng biết bao. Tuy vậy đến đây như 1 bản đàn đang cao vút cao bỗng trùng xuống, những câu thơ của Xuân Diệu cũng trùng xuống. Xuân Diệu nói :
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân
Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
Xưa nay người ta chỉ tiếc thời gian khi nó đã trôi qua chỉ tiếc những kỉ niệm khi nó đã trở thành quá khứ chỉ tiếc mùa xuân khi nó đã đã không còn. Ở đây với sự nhạy cảm đến lạ lùng của nhà thơ, của người yêu cuộc sống đến độ đắm say Xuân Diệu đã tiếc mùa xuân ngay cả khi mùa xuân đang còn ngay cả khi mùa xuân đang đến. Nhà thơ biết rằng thời gian sẽ trôi qua nhanh mà hình như với những gì quý giá với những vẻ đẹp nó còn trôi nhanh gấp bội nhanh đến khủng khiếp. Cái sắp tới rồi sẽ qua đi cái đang non trẻ thắm tươi rồi cũng sẽ già nua tàn úa. Điều ấy cực kì quan trọng với Xuân Diệu :
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất
Câu thơ của Xuân Diệu thật buồn bã bởi nhà thơ vừa như phát hiện một điều bi thảm cho mình: mùa xuân sẽ trôi qua, tuổi trẻ sẽ trôi qua mà khi tuổi trẻ trôi qua thì cuộc đời nào còn ý nghĩa gì nữa. Quý giá nhất của cuộc đời của đất trời là mùa xuân quý giá nhất của đời người là tuổi trẻ
Con người khao khát vô tận nhưng cuộc đời lại có quy luật của nó chặt chẽ vô cùng nghiệt ngã vô cùng
Lòng tôi rộng nhưng lòng người cứ chật
Không cho dài thời trẻ của nhân gian
Thời gian thì vô hạn nhưng đời người thì hữu hạn. Trong cái hữu hạn ấy cái hữu hạn của con người càng nhỏ bé đến tội nghiệp. Có lẽ như bao người ở đời nhà thơ từng lí luận với mình rằng mùa xuân của cuộc đời là bất tận, mùa xuân đi mùa xuân lại đến. Nhưng tự lí luận như thế không những người ta không tự an ủi được mình mà chỉ càng xót xa hơn cho cái hữu hạn nhỏ bé của chính mình
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
Còn đất trời nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời
Mùa xuân của đất trời đẹp lắm quý giá lắm nhưng mùa xuân chỉ quý giá chỉ đẹp khi con người ta biết được vẻ đẹp của nó, cảm nhận được mùa xuân ấy. Không có con người hay con người ko được hưởng thì mùa xuân có mà làm gì ? bởi vậy những câu thơ của Xuân Diệu chuyển sang 1 giọng buồn bã
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt
Con gió xinh thì thào trong gió biếc
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa
Tất cả đều buồn bã tất cả đều mất hết ý vị chỉ còn rớm vị chia phôi với than thầm tiễn biệt chỉ còn hờn nỗi phải bay đi chỉ sợ độ phai tàn sắp sửa, trong thơ VN cả phong trào thơ mới chưa ai có giọng thơ nuối tiếc thời gian thương tiếc cuộc sống thiết tha đến như vậy. Cũng những nét ấy mùa xuân ấy âm thanh ấy ở đoạn trên thì náo nức rạo rực là thế mà ở đoạn này thì buồn thương ngậm ngùi xót xa biết mấy tưởng chừng Xuân Diệu hình dung thấy rõ ràng mùa xuân đã mất tuổi trẻ đã qua nhà thơ đã kêu lên 1 cách tuyệt vọng :
Chẳng bao giờ ôi chẳng bao giờ nữa
Nỗi đau đớn thật chân thành nên Xuân Diệu mới có tiếng kêu như thế. Còn làm gì được nữa bây giờ ? thời gian cứ mênh mông như mùa xuân và đời cứ ngắn ngủi. Còn làm gì được nữa để biến đổi cái hữu hạn của đời người ấy ra thành vô hạn để cùng vô hạn với thời gian với mùa xuân mãi mãi của đất trời ? Chỉ còn 1 cách đó là biến cái hữu hạn về lượng thành cái vô hạn về chất nghĩa là phải vội vàng phải hối hả phải đắm say phải mãnh liệt phải sống thu vào đến độ cao nhất những gì là đẹp đẽ quý giá của đời sống của mùa xuân của tuổi trẻ. Phải nghĩ ngay đến cái nguy cơ mùa xuân sắp qua tuổi trẻ sắp hết. Xuân Diệu giục giã:

Mau đi thôi ! Mùa chưa ngả chiều hôm
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước và cây và cỏ rạng
Đúng là những câu thơ giục giã, cảm xúc của Xuân Diệu như một dòng suối ào ạt tuôn chảy, tưởng chừng ngôn từ xô đẩy vào nhau chen lấn nhau để theo kịp dòng cảm xúc ấy. Những tiếng ta muốn láy đi láy lại mãi để khẳng định niềm khao khát mãnh liệt và cháy bỏng. Những từ ngữ Xuân Diệu sử dụng ở mức độ mãnh liệt nhất: muốn ôm, muốn riết, muốn say, muốn thâu; lại còn 1 cái hôn nhiều chữ nghĩa của Xuân Diệu thật mới lạ và đầy cảm xúc. Sống như thế với Xuân Diệu mới thực là sống sống như thế đi đến chỗ tận cùng của niềm hạnh phúc được sống:
Cho chếnh choáng mùi thơm cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của mùa xuân
Hạnh phúc của sự sống là mùi thơm là ánh sáng là thanh sắc tận hưởng cuộc đời là có được cảm nhận về những điều ấy ở độ tràn trề nhất: chếnh choáng, đã đầy, no nê
Trong niềm cảm hứng ở độ cao nhất Xuân Diệu nhận ra cuộc đời mùa xuân như 1 cái gì quý giá nhất trọn vẹn như 1 trái đời đỏ hồng chín mọng thơm ngát ngọt ngào để cho nhà thơ tận hưởng trong niềm khát khao cao độ:
Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi
Thật không thể nói được gì hơn về nỗi rạo rực của tình yêu đối với cuộc sống !
Gần 50 năm trước Xuân Diệu đã linh cảm cái ngắn ngủi của đời chỉ lo sợ không được cùng với thời gian tồn tại. Lạ thay chính từ thời điểm lo sợ ấy những bài thơ của Xuân Diệu đã sống mãi với thời gian. Bây giờ sau khi nhà thơ đã mất đọc lại những bài thơ như bài Vội vàng này ta bỗng nhận ta rằng Xuân Diệu mãi mãi trẻ trung hôm nay và mai sau cũng vậy

Về Đầu Trang  Thông điệp [Trang 1 trong tổng số 1 trang]

Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết